SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở Trường Mầm non Hoa Thủy

Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.

doc 21 trang thuydung 18/07/2024 970
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở Trường Mầm non Hoa Thủy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở Trường Mầm non Hoa Thủy

SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở Trường Mầm non Hoa Thủy
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 TÊN ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 24-36 THÁNG TUỔI PHÁT TRIỂN 
 NGÔN NGỬ Ở TRƯỜNG MẦM NON ”
 Họ và tên: Phạm Thị Hiền
 Chức vụ: Giáo viên 
 Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hoa Thủy
 Lệ Thủy, tháng 4 năm 2022
 Là một giáo viên mầm non trực tiếp dạy trẻ 24 - 36 tháng tuổi bản thân tôi 
luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác 
đúng Tiếng việt. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút 
ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy 
tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn 
ngữ ở trường mầm non” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với 
chương trình giáo dục mầm non hiện nay.
1.2 phạm vi áp dụng đề tài:
 Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nội dung rất cần thiết. Đề tài này có thể áp 
dụng đối với trẻ 24-36 tháng tuổi nói riêng và ở trường mầm non nói chung và có 
thể áp dụng rộng rãi trong các trường mầm non trong toàn Huyện.
1.3. Điểm mới của đề tài:
 Đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở 
trường mầm non” được nhiều người quan tâm nên đã có nhiều đồng nghiệp nghiên 
cứu về lĩnh vực này, song mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau. Có thể 
thấy ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, là 
phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan 
trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng, của con người và 
xã hội nói chung. Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai 
đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng 
nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng 
đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ chính là công cụ để tư duy 
vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển nhận thức. giải quyết vấn 
đề của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối 
với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung 
quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập 
với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ 
dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng 
mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng 
 đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú về màu sắc và hình 
ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của bộ môn, được 
bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập các lớp chuyên đề do nhà trường tổ 
chức. Giáo viên trong lớp có sự phối hợp nhau trong công tác giảng dạy đặc biệt là 
chú ý phát triển vốn từ cho trẻ. Luôn được sự ủng hộ của phụ huynh. 
b. Khó khăn
 Vì các cháu bắt đầu đi học nên còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh 
hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính khác nhau 
Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp 
xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
- 60% trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ x-s, dấu ngã - dấu sắc, dấu hỏi 
– dấu nặng. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm học tôi luôn quan 
tâm đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng trẻ nhằm 
khám phá, tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có những 
biện pháp giáo dục và nâng cao dần ngôn ngữ cho trẻ. Khi tiếp xúc với trẻ tôi 
nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu từ, về cách phát âm. 
Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp không đủ câu cho nên 
nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn 
hạn chế khi nói, trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây 
cũng là một trong những nguyên nhân của việc ngôn ngữ của trẻ còn nghèo 
nàn. Qua quá trình tiếp xúc với trẻ bản thân tôi thấy rất lo lắng về vấn đề này và tôi 
nghĩ rằng mình phải tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra biện pháp phát 
triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ một cách có hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ tự tin 
hơn khi giao tiếp với mọi người.
c. Điều tra thực tiễn: Với những thuận lợi khó khăn đã nêu ngay đầu năm học vào 
đầu tháng 9. Tôi tiến hành khảo sát thực tế nhằm nắm bắt được thực tế để từ đó có 
kế hoạch dạy trẻ phát triển ngôn ngũ mạch lạc rõ ràng hơn.
 ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở 
rộng vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Cô trò chuyện với trẻ về bản thân, và gia đình của trẻ:
+ Con tên là gì? (...)
+ Gia đình con có những ai?(...)
+ Buổi sáng ai đưa con đến lớp?(...)
+ Mẹ con đưa đi bằng phương tiện gì?(...)
 Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của 
trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ 
tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn 
vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời.
 * Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời
 Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ 
được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: xích đu, cầu trượt, bập bênh. 
Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa, mọi vật ở vườn trường 
và hỏi trẻ:
 + Con thấy bông hoa này có màu gì? (Trẻ trả lời màu đỏ)
+ Thân cây này có to không? (Có ạ)
+ Thế lá cây màu gì? (Màu xanh ạ)
+ Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến không? (Có ạ)
+ Con gì vậy? (Con chim)
 * Giáo dục: Các con ạ! Cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không 
được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Vâng ạ)
 Qua những câu hỏi mà cô đặt racho trẻ sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn 
từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. 
 Như vậy bằng hoạt động tô màu không những rèn cho trẻ sự khéo léo của đôi 
bàn tay mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
2.2.2.Biện pháp thứ 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác.
 * Thông qua giờ nhận biết tập nói:
 Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp 
vốn từ vựng cho trẻ.
 Trẻ ở lứa tuổi 25-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn 
chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy 
cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh 
đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô 
hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
 Ví dụ 1: Trong bài nhận biết ” Con cá” cô muốn cung cấp từ “ đuôi cá ” cho trẻ 
cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả ( được làm bằng bìa) để cho trẻ 
quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn..nhằm phát huy tính tích 
cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
 - Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống 
câu hỏi:
 + Đây là con gì? ( “Con cá ạ”)
 + Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy 
đây? ( Cái đuôi ạ)
 + Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? (Nằm 
ở trên đầu con cá)
 + Đố các bạn biết cá sống ở đâu? ( Sống ở dưới nước)
 + Trên mình cá có gì mà lấp lánh thế ? ( Có vẩy)
 Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu 
theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ.
 Ví dụ 2: Bài nhận biết “ Ô tô”
 Khi vào bài tôi đặt câu đố: 
 “ Xe gì bốn bánh

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_thang_tuoi_phat_trien_n.doc