Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi tại Trường Mầm non Lăng Can
Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Là một cô giáo Mầm Non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình giáo dục Mầm non mới hiện nay.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi tại Trường Mầm non Lăng Can", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi tại Trường Mầm non Lăng Can
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn. Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Là một cô giáo Mầm Non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình giáo dục Mầm non mới hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu: Nhằm tìm ra một số biện pháp để rèn luyện phát triển "Ngôn ngữ" cho trẻ một cách nhẹ nhàng, trẻ được thoải mái, tự nhiên, hoạt động không gò bó để có vốn từ cho trẻ đạt được kết quả tốt nhất. Kích thích và tạo cơ hội cho trẻ phát triển khả năng giao tiếp, đồng thời trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong các hoạt động. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng: Trẻ nhà trẻ 24-36 tháng ( Nhóm trẻ 24-36 tháng Bản Kè) - Trường mầm non Lăng Can. 4. Kế hoạch nghiên cứu: Thời gian TT Nội dung công việc Sản phẩm từ.đến Từ 25/9/2017 - Lựa chọn đề tài, viết đề cương 1 - Bản đề cương chi tiết đến 30/10/2017 cụ thể để bước vào nghiên cứu. 2 Đặc biệt đối với trẻ 24- 36 tháng cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành ngôn ngữ cho trẻ . 2. Thực trạng vấn đề trước khi chưa áp dụng sáng kiến: 2.1. Kết quả khảo sát thực trạng: - Đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát thực tế trên lớp để kiểm tra, đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ với số liệu cụ thể như sau: Số trẻ được khảo sát: 25 cháu. Bảng khảo sát tháng 9/2017 trước khi thực hiện sáng kiến được kết quả cụ thể như sau: STT Nội dung khảo sát Số trẻ Tỷ lệ % Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và 1 15 60% phát âm 2 Vốn từ 13 52% 3 Khả năng nói đúng ngữ pháp 14 56% 4 Khả năng giao tiếp 15 60% - Qua khảo sát, tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ của trẻ không đồng đều, nhiều trẻ còn yếu và trung bình. Vậy để nâng cao phát triển ngôn ngữ của trẻ, trong giờ học tôi luôn quan tâm đến các cháu trung bình, yếu nhiều hơn. Động viên kịp thời để tạo hứng thú cho trẻ. Với kết quả như trên tôi đã mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu và thực hiện "Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi" 2.2. Những điểm mạnh khi thực hiện: - Bản thân tôi luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ở địa phương và ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn, cùng bạn bè, các đồng nghiệp. Ngoài ra bản thân tôi tham gia đầy đủ các đợt tập huấn, các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề trong năm học. - Đa số phụ huynh nhiệt tình với lớp, quan tâm đến trẻ, đưa đón trẻ đúng giờ, đóng góp các khoản đúng theo quy định. 2. 3. Những khó khăn mà bản thân tôi gặp phải trong quá trình thực hiện đề tài đó là: 4 + Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! + Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội) + Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi, mẹ cho búp bê đi chơi nhé! (Âu yếm em búp bê) - Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người. VD2: Ở góc “ Bé khéo tay” cũng ở chủ đề “Giao thông ” bằng miếng xốp thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình ô tô, xe máy để cho trẻ in màu. Trẻ sẽ được in những PTGT đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản phẩm của mình một cách nghệ thuật. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm. Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ: + Con đang làm gì vậy? (Con in hình ô tô ạ) + Ô tô của con có màu gì? (Màu đỏ ạ) + Đây là phương tiện gì con có biết không? (Xe đạp ạ) + Xe đạp này có màu gì? (Màu vàng ạ) + Ô tô và xe đạp là phương tiện giao thông đường gì vậy? ( Đường bộ ạ) - Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những rèn cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. c. Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi và giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường và hỏi trẻ: + Cây hoa này có màu gì? (Trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to hay nhỏ? (To ạ) + Có lá màu gì? ( Màu xanh ạ) - Giáo dục: Các con ạ! Cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Trẻ trả lời) Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích lũy được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại từ đó hình thành cho trẻ kĩ năng nghe nói. * Biện pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác: a. Thông qua giờ nhận biết tập nói: Đây là hoạt động học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ, bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc. VD1: Trong bài nhận biết “Con cá” cô muốn cung cấp từ “đuôi cá” cho trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả (được làm bằng bìa) để cho trẻ quan sát. 6 mình, khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học: + Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ) + Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao) + Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ) + Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun) + Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo) + Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa). + Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương yêu nhau) + Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ). - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn. VD2: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp vòng quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được nhìn, sờ, ngửi và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “sắp vòng quanh”. - Tôi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp trồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngoài. Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời: + Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ) + Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào?( Xanh man mát) + Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? (Sắp vòng quanh ạ) + Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ạ) - Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú. - Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ. VD3: Trong câu truyện “Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. + Trẻ hay nói ô tô - ô chô. + Trẻ nói Thỏ ngoan - Thỏ ngan + Bác Gấu - Bác ấu + Con Cáo - Con áo - Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. - Thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên , khích lệ trẻ kịp thời. 8
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_c.doc